HÀI RÁP - PAPHIOPEDILUM MALIPOENSE s.c. Chen & Z.H. Tsi
Paphiopedilum malipoense s.c. Chen & Z.H. Tsi in Acta Phytotax. Sinica, 22, 2: 119 (1984); Cribb, Gen. Paphiopedilum: 90 (1987); id., Gen. Paphiopedilum: 82 (1998); Braem, Paphiopẹdílum: 37 (1988); Aver., Identif. Guide. Vietnam. Orch.: 16 (1994); Braem, c. Baker & M. Baker, Gen. Paphiopedilum 1; 80 (1998). Type: Yunnan: Malipo, Hwang Jin In, 1300-1600 m, nóv. 11 1947, K.M. Feng 13161 (holotype PE!).
BÀI VIẾT CHIA SẺ KIẾN THỨC VỀ HÀI RÁP, KHÔNG PHẢI HÀNG BÁN
3A . PAPHIOPEDILUM MALIPOENSE VAR. MALIPOEN SE
MÔ TẢ. Cỏ mọc trên đất hay mọc trên đá với 4-6 lá mọc thành 2 hàng và có thân rễ ít nhiều kéo dài với đường kính 2-3,5 mm. Lá dai, gần dựng đứng, hình bầu dục thuôn hay bầu dục hẹp, nhọn không đối xứng ở chóp , dài 10-16(20) cm, rộng 2,5-5(7) cm, đốm khảm xanh lá cây tươi hoặc xanh sẫm ở mặt trên, có đốm tím dày và gờ ở mặt dưới; cuống lá dài 2-4 cm, có lông rìa ở mép gần gốc. Cụm hoa dài 30-50(65) cm, có 1(2) hoa; cuống xanh, có đốm tía nâu hoặc lông tơ trắng hoặc tía nâu; lá hoa hình trứng hay mũi giáo hẹp, dài khoảng 1,5 cm, có lông rìa trắng ở mép, lông tơ trắng ở mặt ngoài. Hoa rộng 8- 12,2 cm, có mũi thơm ngọt dịu; lá đài và cánh hoa xanh táo, có đốm và sọc tím-hồng; môi vàng-xám xanh nhạt, có những đốm tím hồng ở mặt trong; nhị lép trắng tuyền, nâu thẫm hạt dẻ ở nửa trên; cuống hoa và bầu dài khoảng 4 cm, có lông trắng và mở ở chóp. Lá đài lưng hình trứng rộng tới hình mũi giáo- bầu dục với mũi nhọn ở chóp, dài 4,4-7,1 cm, rộng 1,8-4,5 cm, có lông tơ trắng lưa thưa ở mặt trong, không có ở bên ngoài. Lá đài hợp hình trứng rộng tới hình mũi giáo-trứng, nhọn hoặc đôi khi có 2 răng ở chóp, 2 gờ ở lưng, dài 3,8-5,3 cm, rộng 2,4-4,8 cm. Cánh hoa hình trứng, hơi nhọn, dài 4-7,1 cm, rộng 3,4-5,1 cm, có lông tơ trắng ở gốc, lông nhung trắng ở mặt trong. Môi nằm ngang, hình túi sâu, dài 4,5- 6,5 cm, rộng 3,8-5,4 cm, gần như hình cầu, mép không cuộn vào trong, có lông tơ trắng phía trong gốc, lông mịn bên ngoài. Nhị lép lồi, từ hình trứng rộng tới thuôn, dài 13-14 mm, rộng 11-13 mm, cụt ở chóp, gần như không có cuống, có lông mép trắng và lông nhung ở nửa dưới, có gờ ở lưng, có bướu lồi tròn trên bề mặt ở nửa trên.
Paphiopedilum malipoense var. malipoense (Hình vẽ cùa L. Averyanov)
a — Cây mang hoa; b — hoa; c — lá đài lung; d — lá đài hợp; e — cánh hoa; f, g — môi, nhìn từ mặt trước, mặt bên và mặt cắt dọc; h-j — cột nhị nhụy, nhìn từ mặt bên, mặt lưng và mặt bụng.
PHÂN BỐ. Nam Trung Quốc (đông nam Vân Nam, tây Quảng Tây, tây nam Quý Châu), bắc Việt Nam (Bắc Kạn, Hà Giang, Hòa Bình, Lạng Sơn, Quảng Bình, Sơn lá, Thanh Hoá và Tuyên Quang), đông bắc Lào.
SINH THÁI. Rừng nguyên sinh, rậm, thường xanh cây lá rộng hỗn giao và cây lá kim trên núi đá vôi kết tỉnh bị bào mòn mạnh ở độ cao từ (450) 600 đến 1200(1450) m.
THỜI GIAN Nở HOA TRONG THIỀN NHIÊN: Tháng 3-4
TÌNH TRẠNG BẢO TỒN THEO IUCN: EN
QUAN HỆ. Paphiopedilum malipoense là một loài lan Hài đặc biệt có hoa đẹp tảo nhã với lá đài và cánh hoa xanh lá cây, môi xám-xanh nhạt và nhị lép trắng với chóp màu nâu tía. Loài này đã được trao giải thưởng vì hoa có mũi thơm táo hoặc thoảng mũi anh đào. Chúng có lá rộng kẻ ô chữ nhật hoặc đốm khảm xanh lá cây tươi hoặc xanh thẫm, đốm tím tía ở mặt dưới, và cụm hoa thường dài mang một hoa to đơn độc. Nó gần với các loài p. micranthum và p. armeniacum.
LỊCH SỬ. Paphiopedilum malipoense lần đầu tiên được các nhà thực vật học Trung Quốc, S.C. Chen và Z.H. Tsi mô tả vào năm 1984 dựa trên tiêu bản thực vật do K.M.Feng thu năm 1947 ở gần Malipo, đông nam tỉnh Vân Nam, sát biên giới Việt Nam. Tiêu bản gốc được lưu giữ tại phòng Tiêu bản thực vật thuộc Viện Thực vật Bắc Kinh. Ban đầu loài này được cho là đặc hữu của phần tây nam Trung Quốc. Nó vẫn ít được biết đến cho đến khi thu hút sự chú ý của mọi người vào năm 1984 khi được đưa vào trồng. Cùng thời gian này, một số lượng lớn cây sống được thu từ thiên nhiên xuất hiện trên thị trường lan Hồng Kông.
Mặc dù đã có một lượng lớn được xuất ra khỏi Trung Quốc nhưng trong một thời gian dài sự phân bố tự nhiên và nơi sống của chúng vẫn chưa được biết rõ ràng. Ban đầu nó được thu từ những ngọn núi gần thị trấn Malipo. Bên cạnh địa điểm thu mẫu chuẩn này, quần thể tự nhiên của loài này cũng được quan sát thấy dọc theo ranh giới nam của cao nguyên đá vôi Quý Châu ở độ cao 800-1100 m, về phía tây của tỉnh Quảng Tây. Khu phân bố được biết đến hiện nay của Paphiopedilum malipoense ở Trung Quốc bao gồm khu vực núi đá vôi cácxtơ ở tây của tỉnh Quảng Tây, tây nam tỉnh Quý Châu và đông nam tỉnh Vân Nam (Cribb, 1998). Khu vực đá vôi này là một vùng địa lý sinh học đặc biệt và bao trùm một diện tích lớn ở bắc Việt Nam. Kết quả, ngưòi tả cho rằng Paphiopedilum malipoense cũng có ở Việt Nam. Trên thực tế, một lượng đáng kể các cây xuất đi từ Trung Quốc là bắt nguồn từ khu vực giáp ranh với bắc Việt Nam (Averyanóv, 1994). Vài năm sau đó, nó cũng được phát hiện ở nhiều nơi của Việt Nam dọc biên giới với Trung Quốc và Lào (Averyanóv et al. 1997a), vài đợt khảo sát gần đây đã cho thấy đây là loài phân bố rộng ở bắc Việt Nam.
Sự phân bố của Paphiopedilum malipoense var. malipoense ở Việt Nam (Hình: L. Averyanov)
Loài cây này mọc trên những vách núi đá vôi rất dốc khó có thể tới được. Điều này giải thích vì sao nó không được phát hiện sớm hơn mặc dù có phạm vi phân bố rộng ở Việt Nam. Rất nhiều quần thể Paphiopedilum malipoense đã được quan sát thấy ở Việt Nam trên những dãy đá vôi vắt ngang biên giới với Lào. Không nghi ngờ gì nữa, loài này phải có ở Lào, nhưng rất tiếc chưa có tiêu bản nào được thu ở đây.
Mô tả đầu tiên về nơi sống tự nhiên của Paphiopedilum malipoense là của Fowlie (1990b, 1991a). Ông tìm thấy nó trên các ngọn núi đá vôi ở tây nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, ở độ cao 760-1040 m, mọc trên nền đá vôi nơi có đất và mùn lá cây. Sau đó, loài này được tìm thấy ờ những chỗ tương tự thuộc 2 địa điểm ở tây nam Quý Châu, 3 địa điếm ở tây Quảng Tây và 3 địa điếm ở đông nam Vân Nam (Cribb, 1998). Nó mọc ở nơi râm mát của rừng thường xanh trên sườn bắc của những ngọn núi đa vôi có độ cao giữa 850 và 1200 m. Ở Quý Châu, nó mọc cùng một chỗ với các loài lan khác như Paphiopedilum concolor, Vanilla annamica, Phalaenopsis wilsonii, Vanda concolor và Cheirostylis sinensis. Thêm nữa, nó cùng mọc cùng với p.micranthum trên các sườn Bắc gần đỉnh núi đá vôi ở độ cao hơn 1140 m một chút, trên đất và mùn lá cây ngay dưới đỉnh và chân những khối đá vôi rất dốc. Độ pH của đất là 7,47. Ở Quảng Tây, nó được thấy ở độ cao 1300 m trong rừng ngay dưới đỉnh, mọc trong bóng râm giữa những tảng đá vôi trên đất nâu, bở, ít nhiều trung tính và cùng cạnh tranh với các loài cỏ khác, ở một nơi khác trong tỉnh, nó được tìm thấy ở 2 địa điểm có độ cao 1000-1050 m, nơi rừng che phủ đã bị phá hủy. Nó chỉ sót lại trong những bóng râm bao quanh rễ những cây bụi và tre dày đặc trên sườn bắc dốc. Đất ở đây cũng ít nhiều trung tính nhưng đã mất đi rất nhiều chất mùn (Cribb, 1999).
Theo những thông tin gần đây dựa trên những đợt điều tra thực vật ở Việt nam, Paphiopedilum mahpoense là một trong những loài lan Hài phổ biến nhât sống trên đá vôi. Nó sống trên tất cả các khu vực đá vôi lớn nhất ở một số tỉnh miền bắc Việt nam. Các điều kiện môi trường sống ở Việt nam cũng giống như đã miêu tả đối với nam Trung Quốc (Fowlie, 1991 a; Cribb, 1998). Loài này mọc trong rừng cây lá rộng thường xanh, rừng hỗn giao và rừng cây lá kim, trên những sườn núi dốc và những vách núi đá vôi bị xói mòn mạnh.
Nếu như rừng không bị phá hoại, loài này đã rất phổ biến trên các sườn núi ở bất kỳ hướng phơi nào. Tuy nhiên, trong điều kiện nơi sống bị suy thoái, đa phần các quần thể của chúng chỉ sót lại trên những vách đá ẩm hơn của sườn bắc hoặc đông bắc. Thông thường, Paphiopedilum malipoense mọc ở độ cao giữa 700-1200 m. Tuy nhiên biên độ phân bố theo độ cao của loài này rộng một cách đáng ngạc nhiên. Các quần thể của nó ở Việt Nam được tìm thấy ở độ cao từ 450 m tới 1450 m. Những sườn đá rất dốc bị che bóng, những nơi thoai thoải của vách đá dựng đứng, những khe hẹp và sâu, những hố bên dưới các đỉnh núi đá vôi là các nơi sống điển hình của Paphiopedilum malipoense.
Sườn đá vôi rất dốc bị che bóng và những nơi thoai thoải của những vách đá vôi dựng đứng là nơi sống tiêu biểu của Paphiopedilum malipoense (Ảnh: L. Averyanov), a — Bắc Việt Nam, tỉnh Sơn La; b — Bắc Việt Nam, tỉnh Hà Giang
Tất cả những quần thể của var. malipoense được phát hiện thấy cũng mọc trên đá vôi kết tinh giống như đá cẩm thạch với những vách đá bị bào mòn dựng đứng.
Paphiopedilum malipoense mọc ở Việt Nam trên đá vôi kết tinh có vách đứng bào mòn.
Bắc Việt Nam, tỉnh Thanh Hoá (Ảnh L. Averyanov)
Các điều kiện khí hậu ở đây đặc trưng cho bắc Việt Nam. Đây là khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh và mùa hè nóng ám. Mùa đông ở đây rất khô với nhiệt độ trung bình vào khoảng 11 -15°C ở độ cao từ 500-1000 m.
Các số liệu khí hậu tiêu biểu nhất ở phần phía bắc của nơi phân bố của Paphiopedilum malipoense ở Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh và mùa hè mưa.
Các chỉ số màu đen ở chân sơ đồ là tháng. Màu xanh nước biển là lượng mưa tính bằng mm (các cột chỉ ra lượng mưa trung bình tháng); các màu đỏ, xanh lá cây và xanh nước biển chỉ nhiệt độ °C (đường màu đỏ - nhiệt độ tối đa trung bình tháng; đường màu xanh lá cây - nhiệt độ trung bình tháng; đường màu xanh nước biển - nhiệt độ tối thấp trung bình tháng).
Tháng lạnh nhất là tháng 12 và tháng 1 với nhiệt độ ban đêm có thể xuống tới -2°c. Vào mùa đông, thường không có sương muối vào buổi sáng trên mặt đất ở những nơi quang đãng. Trong suốt tháng 3 và những tuần đầu tháng 4, sương mù lạnh và dày đặc rất phổ biến. Đây là nguồn cung cấp độ ẩm chính trong thời gian này trong năm. Mùa hè kéo dài từ giữa tháng 4 đến tháng 9 và tháng 10, trời nóng với nhiệt độ trung bình 23-27°C. Nhiệt độ cao nhất đôi khi lên tới 38-40°C, mùa mưa với những cơn mưa rào xối xả bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 8. Độ ẩm trong thời gian này rất cao. Lượng mưa trung bình năm của khu vực dao động từ 1600 đến 2700 mm.
Khu phân bố phía nam của Paphìopedilum malipoense ở Việt nam là vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh và những cơn mưa hè - thu nóng. Khí hậu ở đây có mùa đông ấm hơn và mùa mưa chuyển sang mùa thu. Đa phần các cơn mưa lớn ở đây được thấy trong các tháng 9-11. Lượng mưa trung bình năm dao động từ 2500 đến 3000 mm. Do có lượng mưa lớn, loài này mọc ở nơi có độ cao thấp hơn.
Các số liệu khí hậu tiêu biểu nhất ở phàn nam của nơi phân bố của Paphiopedilum malipoense ở Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh và mưa vào mùa hè - thu. Số liệu của trạm Đồng Hới, 17°29’B, 106°36'Đ, cao 7 m trên mặt biển (theo Bruzon và Carton, 1930).
Các chữ số màu đen ở chân sơ đồ là tháng. Màu xanh nước biển là lượng mưa tính bằng mm (các cột chỉ ra lượng mưa trung binh tháng); các màu đỏ, xanh lá cây và xanh nước biển chỉ nhiệt độ °C (đường màu đỏ - nhiệt độ tối đa trung bình tháng; đường màu xanh lá cây - nhiệt độ trung bình tháng; đường màu xanh nước biển - nhiệt độ tối thấp trung bình tháng).
Rừng nguyên sinh, rậm thường xanh, cây lá rộng bao phủ những dãy núi đá vôi là nơi phân bố của Paphiopedilum malipoense ở phía bắc Việt Nam. Kiểu rừng này có các loài cây gỗ già cỗi nhưng không quá cao, thân sần sùi như Acer (Aceraceae), Alangium (Alangiaceae), Burretiodendron hsienmu (Tiliaceae), Carpinus sp. (Betulaceae), Gleditsia sp. (Fabaceae), Lithocarpus, Quercus (Fagaceae), Pistảcea welnmannifolia (Anacardiaceae), Plátycarya strobilacea (Juglandaceae) và Ulmus sp. (Ulmaceae). Rất nhiều loài trong số đó rụng lá vào mùa đông khô tạo thành kiểu rừng nửa rụng lá, thậm chí là rừng cây rụng lá.
Rừng cây lá rộng với các loài hạt trần tạo điều kiện cho các quần thể Paphiopedilum malipoense mọc ở đai cao hơn, thường ở các đai núi dưới 900 m. Một số lượng loài cây lá kim quý hiếm thường mọc gần như ưu thế trong kiểu rừng này. Ở đây cũng có một tập hợp rất giàu các loài cỏ và Dương xỉ sống trên đá tiêu biểu. Trong số chúng có nhiều loài phổ biến là Ainsleya (Asteraceae), Hedychium (Zingiberaceae), Arisaema (Araceae), Aspidistra, Disporum, Ophiopogon, Peliosanthes, Polygonatum, Tupistra (Convalláriaceae), Begonia (Begoniaceae), Elátostema, láportea, Pilea, Pellionia (Urticaceae), Impatiens (Balsaminaceae), Lysimachia (Prímuláceae), Seláginellá (Seláginelláceae), Acanthaceae, Gesneriaceae và Melástomatảceae.
Các loài lan ở đây cũng rất phong phú và đa dạng. Có khoảng 50-70 loài địa lan, lan bám đá và lan bì sinh mọc cùng với Paphiopedilum malipoense. Những loài phổ biến nhất trong số đó là Bulbophyllum ambrosia, B. macraei, B. purpureifolium, Calanthe argenteostriatả, Callostylis rigida, Coelogyne fimbriatả, C. malipoensis, Cymbidium floribundum, c. lancifolium, Dendrobium fimbriatum, Eria coronaría, Epigeneium amplum, Liparis averyanóviana, L. balansae, L. dìstảns, L. mannii, Maláxis acuminatả, Monómeria barbatả, Phơiỉdotả leveilleana, p. roseans và p. yunnanensis. Thường chúng mọc trên đá có rêu và ở gốc những cây to. quần thể của Paphiopedilum malipoense thường mọc cùng với các loài lan bám đá khâc như Eria rhombodalis, Oberonlá cavaleriei và các quần thể lan Hài khác như Paphiopedilum dianthum, p. hlrsutissimum và p. micranthum.
Ở những khu rừng nguyên sinh chưa bị tàn phá Paphiopedilum malipoense mọc rất nhiều ở những hốc đá vôi, dọc theo đáy của những hẻm núi nhỏ hẹp và sâu trên đất giàu mùn và lá cây mục. Nó cùng mọc ở khe nứt của những tảng đá dựng đứng. Quần thể của Paphiopedilum malipoense thường mọc ở những sườn dốc gần đỉnh. Loài này rất dễ dáng mọc lan rộng trên nhùng sườn núi dốc và dựng đứng vì có thân bồ mang một loạt cây non và cây trưởng thành. Nó có thể tạo thành lớp phủ liên tục với vai trò cùng ưu thế với quần xã cây thân cỏ mọc trên đá tại một vài nơi.
(phía trên bên trái). Trên những sườn dốc Paphiopedilum malipoense dễ dàng mọc lan nhờ các thân bồ. (Bắc Việt Nam, tỉnh Hoà Bình (Ảnh: L. Averyanov)).
(phía trên bên phải). Trong rừng nguyên sinh Paphiopedilum malipoense có thể tạo thành lớp phủ liên tục với vai trò cùng ưu thế trong quần xã cây thân cỏ mọc trên đá (Ảnh: L. Averyanov)
Nụ hoa của Paphiopedilum malipoense xuất hiện ngoài thiên nhiên trong suốt tháng 9 và tháng 10 nhưng nhiệt độ thấp sau đó đã hạn chế sự phát triển của chúng. Ở nơi sống của chúng trên độ cao 1000 - 1400 m thời tiết bất thường vào ban đêm của các tháng 12, tháng 1 và tháng 2, nhiệt độ có thể xuống tới 1 hoặc 2 độ do sương giá. Thời kỳ ra hoa của Paphiopedilum malipoense ở bắc Việt Nam trùng hợp với thời gian ấm áp của mùa xuân, vào tháng 3 và tháng 4. Điều đáng ngạc nhiên là cụm hoa của loài này có thể dài tới 60 - 65 cm ở ngoài thiên nhiên. Điều này làm tăng khả năng đón nhận gió do nơi sống của nó là các hốc và hẻm núi hẹp và sâu.
Ở Việt Nam Paphiopedilum malipoense hiện vẫn còn gặp phổ biến ở một vài địa phương. Tuy nhiên nó là một trong những loài cây thân cỏ dễ bị tổn thương nhất trong rừng nguyên sinh. Sau khi những cây gỗ lớn bị chặt thì nơi sống trở lên khô và loài ưa ẩm này nhanh chóng biến mất. Việc thu mẫu nhàm mục đích thương mại xảy ra trên toàn bộ phạm vi phân bố của nó. Loài cây này cũng thường xuyên bị xuất khẩu bất hợp pháp sang Trung Quốc từ những chợ dọc biên giới. Người ta đã ước lượng rằng tổng số cây Paphiopedilum malipoense được xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc trong thời gian 1990 - 1997 có thể đạt tới vài tấn trong mỗi năm (Averyanov et al., 1997a). Điều này cho thấy loài này đang ở trong tình trạng nguy cấp (EN). Ở Trung Quốc Paphiopedilum malipoense đã bị tiệt chủng ở hầu hết các nơi đã biết trước đây do sự suy thoái thảm thực vật nguyên sinh và việc thu mẫu nhằm mục đích thương mại. Các cây Paphiopedilum malipoense được thu từ thiên nhiên vẫn được bày bán ở các chợ hoa Côn Minh và Vân Sơn (Wenshan) ở Vân Nam và các chợ hoa khác trong vùng, ở Côn Minh các cây này được bán với giá từ 30 - 50 nhân dân tệ (so với 10 nhân dân tệ/kg của loài p.micranthum).
BIẾN THÁI. Sự khác nhau về hình dạng và màu sắc có thể thấy rõ trong quần thể của var. malipoense ò Việt Nam. Hoa ở các quần thể khác nhau có thể khác nhau về chiều rộng từ 6 đến 12 cm, cánh hoa của các quần thể ở phần bắc rộng và ngắn hơn so với các quần thể ở phần nam. Lá đài thường có màu xanh táo đồng nhất, nhưng đôi khi có đốm tía rất đẹp ở gốc, cánh hoa có màu xanh táọ tươi, sau đó trở lên xanh vàng nhạt, và ít nhiều có sọc nâu tím. Cây mọc ngoài thiên nhiên thường cụm hoa chỉ có một hoa nhưng thỉnh thoảng một hoa thứ hai nhỏ hơn có thể được hình thành. Dạng hoa trắng, với bao hoa và nhị lép vàng nhạt không có sọc rất hiếm gặp nhưng có giá rất cao. Những cây này cũng không có bất kỳ màu tím nào ở trên lá và cụm hoa. Một dạng có môi trắng và thuỳ bên tía nâu được nhận ra trong số những cây nhập vào Đức gần đây từ Việt Nam hoặc Nam Trung Quốc là Paphiopedilum malipoense var. tonnianum J. Roth (in Die Orchidee 51,5: 561 (2000)).
3B. PAPHIOPEDILUM MALIPOENSE var. JACKII (H.s. Hua) Aver,
Paphiopedilum malipoense var. jackii (H.s. Hua) Aver, in Orchids 66, 2: 153 (1997). Type: China, Yunnan, Wenshan, 12 March 1995, s.s. Hu 3268 A-S (holotype IBSC). Paphiopedilum jackii H.s. Hua in Die Orchidee 46, 3: U4 (1996).
MÔ TẢ. Cỏ mọc trên đất hay trên đá. Lá xanh lá cây nhạt, có đốm khảm và gân lá màu xanh lá cây thẫm ở mặt trên, xanh lá cây nhạt và đốm tím tía lưa thưa ở mặt dưới. Hoa khác với thứ chuẩn bởi cánh hoa hẹp hơn nhiều, môi xanh hoặc xanh vàng nhỏ hơn và nhị lép trắng, phần giữa vàng, xanh vàng hoặc xanh với gân tím rất đẹp.
PHÂN BỐ. Trung Quốc (Vân Nam), bắc Việt Nam (Tuyên Quang).
SINH THÁI. Rừng nguyên sinh, khá thưa, khô, thường xanh cây lá rộng trên những núi đá vôi mềm phân lớp ở độ cao 550 - 650 m.
THỜI GIAN Nở HOA TRONG THIÊN NHIÊN. Tháng 3-4.
TÌNH TRẠNG BẢO TÒN THEO IUCN. EN
LỊCH SỬ. Paphiopedilum jackii Hua được s.s.Hu mô tả lần đầu tiên vào năm 1996 dựa trên mẫu vật do chính s.s. Hu thu từ nam Vân Nam. Tuy nhiên nguồn gốc cùa nó ở Vân Sơn (Wenshan) là không chắc chắn bởi vì thành phố này có một chợ hoa mua bán lan từ các khu vực nông thôn xung quanh cũng như từ các vùng của Việt Nam và Lào liền kè. Tên của Dr. Jack Fowlie, một người yêu lan nổi tiếng đã chết đã được dùng làm định ngữ của taxôn mới này. Var. này rất giống với var. malipoense về nơi sống và hình thái hoa nhưng khác một chút về hình dáng cánh hoa và đặc biệt về màu sắc của nhị lép và lá. Cả hai thứ này ít nhiều mọc cùng một chỗ nhưng không bao giờ tạo nên một quần thể hỗn hợp trong cùng nơi sống.
NƠI SỐNG. Var. jackii ưa thích điều kiện sinh thái đặc biệt, ở Việt Nam nó mọc trên trên đá vôi mềm phân lớp (hình thành từ Mesozoi), trên đá phiến và phiến sét có thành phần vôi cao.
Loài này mọc ở những khu vực đồi núi thấp 550 - 650 m.
Paphiopedilum malipoense var. jackii ở nơi sống tự nhiên (Ảnh: L. Averyanov)
Ở Việt Nam nó chỉ được tìm thấy ở Tuyên Quang trong một khu vực đá vôi rất hẹp ở đất thấp được phân cách bởi sông Gâm và sông Năng trên các núi silicát cao của dãy Pia Bioc, Sam Sao và Lung Ni Ung. Điều này giải thích cho sự hiếm hoi của nó ở bắc Việt Nam. Nó vẫn chưa được tìm thấy ở các khu vực khác trong nước.
Sự phân bố của Paphiopedilum malipoense var. hiepii (Ảnh trên)
Sự phân bố của Paphiopedilum malipoense var. jackii (Ảnh trên)
Paphiopedilum malipoense var. jackii ưa sống ở những nơi nóng hơn và có độ cao thấp hơn so với thứ chuẩn. Nhiệt độ mùa hè từ tháng 5 đến tháng 9 trong khu vực dao động từ 25 - 30°C và trong mùa đông từ 15 - 18°C. Vào mùa đông, gió mùa đông bắc lạnh rất phổ biến làm cho nhiệt độ có thể xuống tới 5 - 10°C. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9 và mùa đông rất khô. Lượng mưa trung bình năm vào khoảng 1600 - 1700 mm.
BIẾN THÁI. Hoa Paphiopedilum malipoense var. jackii biến đổi rõ rệt về hình dạng cánh hoa và màu sắc của nhị lép. Hình dạng cánh hoa biến đổi từ hình trứng tới hình trứng hẹp từ quần thể này tới quần thể khác, trong khi nhị lép có thể trắng tuyền hoặc trắng có phần giữa vàng, xanh vàng hoặc xanh tươi, thường có các đốm và gân màu tía rất đẹp. Lá thường có nền sáng trắng ở mặt trên và các đốm tía lưa thưa ở mặt dưới.
Các sự khác nhau về màu sắc và hình thái của hoa Paphiopedilum malipoense var. jackii ở bắc Việt Nam (Ảnh: a: P.J. Cribb; Ảnh b, c: L. Averyanóv), a — bắc Việt Nam, tỉnh Tuyên Quang; b, c — cây thu thập ở Tuyên Quang trồng trong các vườn ươm tư nhân tại Hà Nội.
Các kiểu màu của nhị lép ở hoa của Paphiopedilum malipoense var. malipoense và var. jackii ở bắc Việt Nam (Ảnh: L. Averyanov).
a — Thuần màu của Paphiopedilum malipoense var. malipoense; b, c — sự thay đổi màu phổ biến cùa nhị lép đối với quần thể Paphiopedilum malipoense var. jackii ở bắc Việt Nam.
Các kiểu màu lá của hài ráp và jackii
3C. PAPHIOPEDILUM MALIPOENSE var. HIEPII (Aver.) P.J. Cribb
Paphiopedilum malipoense var. hiepii (Aver.) PJ. Cribb, Genus Paphiopedilum: 88 (1998), Type: northern Vietnam, Prov. Tuyen Quang, Distr. Tuyen Quang, closed evergreen primary forest on limestone hills at 500-600 m, 14-15 June 1995, N.T. Hiep s.n. (holotype LE, photo. HN),
Paphiopedilum hiepii Aver, in Orchids 67, 3: 261 (1998).
Paphiopedilum angustatum Z.J. Liu & s.c. Chen, in Acta Phytotax. Sinica 38, 5: 464 (2000). Type: China, Yunnan, Malipo, 23 March 2000, Z.H. Liu 1505 (hơiotype Herb. Shenzhen City Wutongshan Nurseries).
Paphiopedilum jackil H.s. Hua var. hiepii (Aver.) Koop. in Orchid Digest 64, 4: 168 (2000).
MÔ TẢ. Cỏ mọc trên đất. Lá xanh nhạt với các đốm khảm nhạt và gân xanh thẫm ở mặt trên và xanh nhạt với các đốm tím tía lưa thưa ở mặt dưới. Hoa khác thứ chuẩn ớ cánh hoa hình trứung rất hẹp hoặc hình mũi giáo quặp lại ở chóp, môi xanh vàng nhỏ hẹp bị ép lại ở mặt bên và nhị lép trắng có điểm một vài đốm màu tía rất đẹp ở chóp.
Paphiopedilum malipoense var. hiepii (Hình vẽ của L. Averyanov).
a - cây mang hoa; b - hoa; c - lá đài lưng; cl - lá đài hợp; e - cánh hoa; f, g - môi, nhìn từ mặt bên và mặt cắt dọc; h-i — cột nhị nhụy, nhìn từ mạt lưng và mặt bụng; j — bầu và lá hoa (Vẽ theo mâu chuẩn- type)
PHÂN BỐ. Trung Quốc (đông nam tỉnh Vân Nam), bắc Việt Nam (tỉnh Tuyên Quang).
SINH THÁI. Rưng nguyên sinh, rậm, thường xanh, khô, cây lá rộng trên đá vôi mềm và đá phiến giàu vôi ở độ cao 500 - 600 m.
THỜI GIAN NỞ HOA TRONG THIÊN NHIÊN. Tháng 3 - 4.
TÌNH TRẠNG BẢO TỒN THEO IUCN: EX
LỊCH SỬ. Paphiopedilum malipoense var. hiepii là một taxon kỳ lạ, khác biệt với tất cả những loài khác trong dưới chi Parvisepalum về lá đài và cánh hoa hẹp, môi hẹp, bị ép lại ở mặt bên và quặp lại. Điểm này không thấy ở các loài lan Hài khác.
Tuy nhiên, nó rất gần với var. jackli. Một vài mẫu nghiên cứu có hạt phấn không phát triển đầy đủ cho thấy có thể đây là một dạng khác thường. taxon này được nhà thực vật Việt Nam, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hiệp phát hiện năm 1995 trong đợt điều tra thực địa của dự án "Điều tra các loài lan Hài Paphiopedilums bị đe doạ tiêu diệt ở Việt Nam" được Hội lan Hoa Kỳ tài trợ.
NƠI SÔNG. Các cây của thứ này được tìm thấy gần các quần thể của var. jackii, nhưng cùng như các loài địa lan, mọc ở nơi râm mát của rừng rậm khô nguyên sinh. Thứ này mọc trên các núi được tạo thành bởi đá vôi mềm phân lớp và đá phiến giàu vôi ở độ cao 500 - 600 m. Nơi sống tự nhiên và các yêu cầu sinh thái của cả hai thứ rất giống nhau. Mùa hoa nở của nó ở ngoài thiên nhiên kéo dài từ tháng 3 đến tháng 4.
Paphiopedilum angustatum không nghi ngờ gì nữa chính là Paphiopedilum malipoense var. hlepii. Thông tin về nguồn gốc của nó ở Malipo của tỉnh Vân Nam có lẽ là sai. Malipo là thị trấn biên giới của Trung Quốc, nơi mà các loài lan của Việt Nam được bán rất nhiều.
Trong những năm gần đây sự phá huỷ thảm rừng nguyên sinh trong khu vực nơi var. hiepii đuợc phát hiện đã gây ra sự tuyệt chủng của quần thể duy nhất được biết của taxon lan này. Mặc dù đã nghiên cứu rất nhiều, trong đó có cả việc tìm hiểu từ những nguời thu mẫu nhằm mục đích thương mại, nhưng không có thêm bất kỳ thông tin nào về taxon lan hiếm này. Tiếc thay, thứ này có lẽ đã bị tuyệt chủng ở Việt Nam.
"Mọi bài viết sao chép lại xin ghi nguồn phonglanrung.com"
Không có nhận xét nào:
Cảm ơn bạn đã liên hệ cho Phonglanrung.com